Trang chủ

VẤN ĐỀ HẠT NHÂN Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRIỀU TIÊN – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

Đăng ngày: 19-02-2014, 12:46 | Danh mục: Bài viết tạp chí » Năm 2009 » Số 10

Trong hai thập kỷ trở lại đây, Bán đảo Triều Tiên là một trong những tâm điểm gây sự chú ý của dư luận thế giới. Khu vực chiến lược này luôn luôn nóng bỏng, căng thẳng, gây quan ngại cho các nước chung quanh và toàn thể nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Sự chia cắt  lâu dài giữa hai miền đã tạo nên sự đối đầu gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, chiến tranh. Đó là những vấn đề không chỉ riêng của hai miền Triều Tiên mà đã trở thành vấn đề quốc tế, chi phối đời sống chính trị thế giới. Bởi thế cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,… đã vào cuộc và đang nỗ lực tìm ra tiếng nói chung để giải quyết vấn đề này.

Gần đây, vấn đề hạt nhân của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên  được phía Triều Tiên thừa nhận, khiến Bán đảo Triều Tiên càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Tương lai về sự thống nhất và khát vọng hoà giải dân tộc giữa hai miền Triều Tiên nói chung và vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên nói riêng sẽ được giải quyết như thế nào? Liệu khát vọng của toàn thể nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới và nhân dân hai miền Triều Tiên về một Bán đảo Triều Tiên hoà bình, ổn định và phi hạt nhân hoá có trở thành hiện thực?

1. Khái lược lịch sử vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên

Sau nửa thế kỷ kể từ khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), quan hệ giữa CHDCND Triều Tiên và Mỹ luôn trong tình trạng thù địch. Sự tồn tại của Hiệp định đình chiến, kết thúc cuộc chiến tranh 1950-1953, làm cho mối quan hệ này chưa hề được cải thiện. Mặc dù từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, CHDCND Triều Tiên và Mỹ bắt đầu có những cuộc tiếp xúc và đối thoại nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết và cả hai nước vẫn chưa tìm được tiếng nói chung.

Từ năm 1987, sau khi CHDCND Triều Tiên cho ra đời lò phản ứng hạt nhân 5000 kw, Mỹ đã tìm mọi cách để cộng đồng quốc tế gây sức ép buộc CHDCND Triều Tiên cùng Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) ký hiệp định giám sát an toàn các thiết bị hạt nhân của Triều Tiên và để IAEA kiểm tra các thiết bị đó. Đầu năm 1993, khi CHDCND Triều Tiên từ chối không cho IAEA tiến hành điều tra, đặc biệt là hai địa điểm có thiết bị hạt nhân chưa báo cáo và tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT), Mỹ mới bắt đầu đàm phán trực tiếp với CHDCND Triều Tiên về vấn đề hạt nhân. Tháng 10-1994, Mỹ và CHDCND Triều Tiên ký thoả thuận Hiệp định khung Geneva với mục đích mà Mỹ mong muốn là Bình Nhưỡng ngừng hoạt động, và cuối cùng tháo gỡ lò phản ứng hạt nhân; niêm phong thiết bị tái xử lý vật liệu hạt nhân; CHDCND Triều Tiên cam kết hợp tác với IAEA, chịu sự điều tra tạm thời và đặc biệt cũng như không được rút khỏi Hiệp ước NPT. Đổi lại, các nước phương tây và Mỹ giúp CHDCND Triều Tiên xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ trong 10 năm; trước khi nhà máy điện hạt nhân hoạt động sẽ cung cấp cho nước này 500.000 tấn dầu mỗi năm. Nhưng tình hình thực thi Hiệp định khung không đạt được tiến bộ như mong muốn mà các bên đã ký kết. Trong gần 10 năm, nhà máy điện hạt nhân chỉ hoàn thành được 25% khối lượng công trình([1]) Bên cạnh đó, một số điều khoản khác cũng chưa được thi hành một cách nghiêm túc, như việc Bình Nhưỡng đã bí mật khôi phục chương trình hạt nhân. Hai bên có sự giải thích khác nhau, nhưng về cơ bản là do chưa tin tưởng nhau, mỗi bên đều thiếu tinh thần chấp hành các điều khoản của Hiệp định. Năm 1998, Mỹ và CHDCND Triều Tiên lại trải qua một lần đối đầu hạt nhân. Ngày 31-8-1998, CHDCND Triều Tiên phóng vệ tinh, nhưng Mỹ cho là tên lửa đạn đạo và sau đó đã tăng cường do thám CHDCND Triều Tiên. Mỹ phát hiện Bình Nhưỡng có một cơ sở ngầm dưới đất và đòi được vào thanh sát, nhưng CHDCND Triều Tiên từ chối. Trước tình hình đó, Quốc hội Mỹ đã từ chối chuẩn y dự toán tài chính dành cho Tổ chức Phát triển năng lượng trên Bán đảo Triều Tiên  (KEDO), dẫn đến sự trì hoãn tiếp thêm cho dự án vốn đã khó khăn về tài chính này. CHDCND Triều Tiên ngay lập tức sử dụng hành động của Mỹ để hợp pháp hoá những việc làm và có thái độ không phù hợp với Hiệp định khung; ép buộc các nước ký Hiệp định, đặc biệt là Mỹ phải có những nhượng bộ mới. Đổi lại Quốc hội Mỹ đã đề nghị Tổng thống B.Clinton phải cho thành lập một uỷ ban điều tra nhằm xem xét, điều chỉnh lại chính sách của Mỹ đối với CHDCND Triều Tiên.

Dưới áp lực của cộng đồng quốc tế, Mỹ và CHDCND Triều Tiên đã tiến hành đàm phán. Bình Nhưỡng yêu cầu khoản tiền 300 triệu USD cho việc thanh tra một lò phản ứng hạt nhân, nhưng Mỹ đã từ chối vì cho rằng giá như vậy là quá cao. Ngày 16-3-1999, sau nhiều tranh cãi của 4 vòng đàm phán, hai bên đạt được Hiệp định trong đó Bình Nhưỡng chấp nhận để Mỹ thanh sát hạt nhân, đổi lại Mỹ cung cấp 900.000 tấn lương thực và 1000 tấn khoai tây giống([2]). Tuy nhiên sau khi thanh sát, Mỹ không đưa ra được bằng chứng để cáo buộc CHDCND Triều Tiên vi phạm những thoả thuận đã ký, và cũng chính nhờ vậy mà cuộc khủng hoảng hạt nhân lần này cơ bản được dịu đi.

Cuộc khủng hoảng hạt nhân năm 2002 bùng phát sau chuyến thăm CHDCND Triều Tiên của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách vấn đề Đông Á – James Kelly tháng 10-2002. Kết thúc chuyến thăm, ông ta đã đưa ra một thông tin gây chấn động: Tại các cuộc hội đàm từ ngày 3 đến ngày 5-10 ở Bình Nhưỡng, lãnh đạo CHDCND Triều Tiên thừa nhận nước này đã bí mật khôi phục chương trình phát triển hạt nhân và đã có vũ khí hạt nhân. Trước đó, có tin Cục tình báo Trung ương Mỹ(CIA) phát hiện Bình Nhưỡng bí mật khôi phục kế hoạch hạt nhân, thu được chứng cứ rõ ràng về việc CHDCND Triều Tiên tiến hành nghiên cứu vũ khí hạt nhân, trong đó có việc đặt mua thiết bị kỹ thuật hạt nhân ở nước ngoài.

Từ việc thừa nhận của Bình Nhưỡng và thông tin của CIA về chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã đẩy vấn đề này lên một bước leo thang mới. Cụ thể: Ngày 14-11-2002, sau khi Mỹ tuyên bố ngừng cung cấp dầu cho CHDCND Triều Tiên kể từ tháng 12, Bình Nhưỡng đã phản ứng bằng thái độ cứng rắn. Với lý do Mỹ ngừng cung cấp dầu, vi phạm Hiệp định khung Geneva 1994, CHDCND Triều Tiên tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định này. Ngày 17-11-2002, lần đầu tiên Đài phát thanh trung ương CHDCND Triều Tiên tuyên bố trước toàn thế giới rằng nước này đã có vũ khí hạt nhân và những vũ khí huỷ diệt. Ngày 12-12-2002, CHDCND Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và lập tức khởi động lại lò phản ứng hạt nhân. Sau đó 10 ngày, Bình Nhưỡng tuyên bố bãi bỏ cơ chế thanh sát của các thanh tra viên IAEA. Sau đó 4 ngày, CHDCND Triều Tiên lại tuyên bố đã tiến hành tinh luyện thành công những thanh nhiên liệu hạt nhân phục vụ chế tạo vũ khí và ra lệnh trục xuất các thanh tra viên IAEA trước ngày 31-12. Ngày 6-1-2003, Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên (KCNA) tuyên bố nếu sử dụng vũ lực đối với lò phản ứng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên thì Mỹ sẽ đứng trước một cuộc trả đũa huỷ diệt, đồng thời cảnh báo bất kỳ một quyết định trừng phạt nào đối với CHDCND triều Tiên đều bị coi là lời tuyên chiến. Ngày 17-2-2003, Bình Nhưỡng tuyên bố nếu Mỹ dùng biện pháp quân sự phong tỏa, họ sẽ rút khỏi Hiệp định đình chiến đưa hai miền trở lại tình trạng chiến tranh. Ngày 20-2-2003, máy bay của CHDCND Triều Tiên đã bay qua khu vực Bắc giới tuyến vào khu phi quân sự. Ngày 24-2-2003, CHDCND Triều Tiên tiến hành thử tên lửa tầm ngắn 100 km, gây sức ép với Mỹ và Hàn Quốc. Ngày 10-3-2003, CHDCND Triều Tiên tiếp tục thử tên lửa tầm trung, cự ly 110 km bắn ra biển Nhật Bản, khiến dư luận Nhật Bản và các nước xung quanh xôn xao. Ngày 18-4-2003, CHDCND Triều Tiên tuyên bố họ đã thành công trong việc xử lý hơn 8.000 thanh nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.

Trước những tuyên bố và hành động của CHDCND Triều Tiên, chính quyền Mỹ đã áp dụng chính sách vừa cứng vừa mềm để hạ nhiệt CHDCND Triều Tiên, vừa trấn an dư luận Hàn Quốc, Nhật Bản và xác định phương hướng giải quyết vấn đề theo cách có lợi nhất cho Mỹ mà không mất lòng các đồng minh. Ngày 4-3-2003, Mỹ đưa 24 máy bay ném bom chiến lược B-1 và B-52 tới bố trí tại đảo Gu-am, tăng thêm lục quân tới vùng Châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời thành lập Bộ tư lệnh Đông Bắc Á, chuẩn bị cho khả năng chiến tranh tại Bán đảo Triều Tiên, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh tại Irắc. Ngày 8-3-2003, quân đội Mỹ và quân đội Hàn Quốc tổ chức tập trận chung vượt sông ngay trên khu vực gần đường giới tuyến hai bên. Ngày 12-3-2003, Mỹ tuyên bố khôi phục thanh sát quân sự ở vùng biển phía Đông CHDCND Triều Tiên. Ngày 15-3-2003, đội tàu sân bay Cart – Vinson của Mỹ hành quân đến vùng biển Triều Tiên tham gia cuộc tập trận chung mang tên RSOI tổ chức từ ngày 19-3 đến ngày 26-3-2003. Một khi có xung đột, tàu sân bay này có thể chi viện tới 69.000 quân. Cũng thời điểm này, Mỹ điều động máy bay tàng hình F-117 tới Hàn Quốc, chuẩn bị cho những cuộc oanh kích đối với các mục tiêu quân sự - kinh tế ở CHDCND Triều Tiên. Ngày 19-4-2003, vào lúc cuộc chiến tranh Irắc cơ bản kết thúc, Mỹ đã tuyên bố xem xét áp dụng hành động quân sự đối với CHDCND Triều Tiên.

Hành động của Bình Nhưỡng và những phản ứng của Mỹ cùng các nước xung quanh đã đẩy Bán đảo Triều Tiên vào cuộc khủng hoảng hạt nhân mới, đầy căng thẳng, bất trắc và tìm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.

2. Thực trạng vấn đề khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên hiện nay

Đối mặt với nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên và một cuộc chiến tranh có thể xảy ra giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên, cộng đồng quốc tế và các nước liên quan bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc và Hàn Quốc đã nỗ lực để đưa vấn đề lên bàn đàm phán, thương lượng. Các cuộc đàm phán đã được tổ chức nhằm tháo ngòi nổ cho cuộc chiến tranh tiềm tàng cũng như tìm kiếm giải pháp thoả đáng để giải giáp chương trình vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Từ tháng 8-2003 đến nay, các bên liên quan đã tiến hành sáu vòng đàm phán về vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên([3])

Vòng đàm phán sáu bên đầu tiên được tổ chức tại nhà khách Điếu Ngư Đài ở Bắc Kinh từ ngày 27 đến ngày 29-8-2003, nhưng chỉ mang tính hình thức.

Vòng đàm phán sáu bên lần thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 25 đến ngày 28-2-2004, kết thúc không thu được kết quả do lập trường các bên còn khá xa nhau. Tuy nhiên, các bên đã đề cập việc thành lập ban công tác để đàm phán về vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên. Tại vòng đàm phán này, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản ủng hộ việc thành lập ban công tác để thảo luận các bước từ đình chỉ đến huỷ bỏ chương trình phát triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên, đồng thời các bên thảo luận ra một tuyên bố chung, trong đó đề cập việc tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán.

Vòng đàm sáu bên lần thứ ba được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 23 đến ngày 26-6-2004, với mục đích chính là Mỹ đề nghị viện trợ năng lượng cho CHDCND Triều Tiên, đổi lại nước này từ bỏ các chương trình hạt nhân.

Vòng đàm phán sáu bên lần thứ tư được tiến hành trong hai giai đoạn. Giai đoạn một từ ngày 26-7 đến ngày 7-8-2005, giai đoạn hai từ ngày 13 đến ngày 19-9-2005. Vòng đàm phán này kết thúc với việc ra Tuyên bố chung sáu điểm, khẳng định thực hiện có tính nguyên tắc về các vấn đề then chốt như: CHDCND Triều Tiên cam kết từ bỏ tất cả vũ khí hạt nhân và các kế hoạch hạt nhân hiện thời; Mỹ khẳng định tôn trọng chủ quyền của CHDCND Triều Tiên; không triển khai vũ khí hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên; không có ý định tấn công Triều Tiên và sẽ thảo luận vấn đề xây dựng các lò phản ứng nước nhẹ cho CHDCND Triều Tiên vào thời điểm thích hợp.

Vòng đàm phán sáu bên lần thứ năm được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn một diễn ra từ ngày 9 đến ngày 11-11-2005 với mục tiêu chính là bàn các biện pháp và bước đi cụ thể để thực hiện Tuyên bố chung đã đạt được trong vòng đàm phán thứ năm. CHDCND Triều Tiên yêu cầu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận, đồng thời ngừng cáo buộc nước này phát triển vũ khí hạt nhân và làm đô la giả. Trong khi đó Mỹ lại khẳng định lập trường không bàn đến vấn đề lò phán ứng nước nhẹ khi Bình Nhưỡng chưa từ bỏ chương trình hạt nhân… Với những bất đồng như vậy, giai đoạn một của vòng năm đàm phán sáu bên không đạt được thoả thuận cụ thể nào, kể cả việc ấn định thời gian đàm phán giai đoạn hai.

Do lập trường của Mỹ và CHDCND Triều Tiên còn khác xa nhau, giai đoạn hai của vòng năm đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, diễn ra từ ngày 18 đến ngày 22-12-2006, tiếp tục gặp khó khăn, phức tạp.

Tuy nhiên, tại giai đoạn ba, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 13-2-2007, các bên đã đạt được Thỏa thuận chung (còn được gọi Thoả thuận ngày 13-2), với nội dung cơ bản là CHDCND Triều Tiên sẽ bắt đầu những động thái ngừng hoạt động các cơ sở hạt nhân hướng tới phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên, cụ thể là CHDCND Triều Tiên sẽ đóng cửa và niêm phong các cơ  sở hạt nhân của mình tại Dong Piên, mời nhân viên của cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) trở lại CHDCND Triều Tiên, đồng thời chấp nhận tất cả các cuộc giám sát, kiểm chứng cần thiết, đổi lại các nước liên quan sẽ cung cấp năng lượng hoặc các khoản viện trợ tương đương cho CHDCND Triều Tiên; Mỹ đưa CHDCND Triều Tiên ra khỏi danh sách các nước tài trợ khủng bố và dỡ bỏ các chế tài tài chính đối với CHDCND Triều Tiên; thành lập năm nhóm làm việc về phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên, viện trợ kinh tế và năng lượng cho Triều Tiên, xây dựng một khuôn khổ hoà bình cho Bán đảo Triều Tiên và an ninh Đông Bắc Á, bình thường hoá quan hệ CHDCND Triều Tiên - Mỹ, bình thường hoá quan hệ CHDCND Triều Tiên - Nhật Bản. Đây được coi là một bước đột phá mang tính thực chất mà đàm phán sáu bên mang lại.

Vòng đàm phán sáu bên lần thứ sáu giai đoạn một bắt đầu từ ngày 19-3-2007, nhưng do lập trường các bên còn khác xa nhau nên đến ngày 22-3, các bên nhất trí tạm dừng.

Ngày 18-7-2007, các bên tham gia đàm phán nối lại giai đoạn một vòng sáu đàm phám sáu bên, cuộc đàm phán đến ngày 20-7, thêm một ngày so với dự kiến, nhưng không đạt được thoả thuận về thời hạn chót để CHDCND Triều Tiên công bố tất cả các chương trình hạt nhân và đóng cửa các cơ sở hạt nhân của nước này.

Tại cuộc đàm phán sáu bên tiếp theo từ ngày 27 đến ngày 30-9-2007 ở Bắc Kinh, các bên đã đạt được thoả thuận về thời hạn chót cho việc CHDCND Triều Tiên đồng ý tiến hành khai báo và vô hiệu hoá các cở sở hạt nhân trước năm 2007. Phạm vi vô hiệu hoá được tiến hành ở ba cơ sở hạt nhân chính là lò nguyên tử 5000 kw, cơ sở tái xử lý, nhà máy sản xuất thanh nhiên liệu hạt nhân; mức độ vô hiệu hoá là dỡ bỏ một số thiết bị và áp dụng biện pháp quản lý đặc biệt đảm bảo nếu muốn khôi phục hoạt động bình thường của các cơ sở này phải mất một năm. Chủ thể tiến hành vô hiệu hoá là năm nước tham gia đàm phán gồm Mỹ, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Các bên liên quan cung cấp tương đương 950.000 tấn dầu nặng cho Triều Tiên theo thoả thuận([4]). Mỹ sẽ nỗ lực để đưa Triều Tiên ra khỏi danh sách các nước tài trợ khủng bố, đồng thời ngừng áp dụng Luật Thương mại với những nước kẻ thù, tương ứng với việc Triều Tiên thực hiện khai báo và vô hiệu hoá các cơ sở hạt nhân. Ngoài ra, các bên đồng ý sẽ sớm tổ chức hội đàm cấp trưởng đoàn đàm phán sáu bên trước khi tổ chức hội đàm cấp bộ trưởng ngoại giao sáu nước.

Tuy nhiên, ngày 31-12-2007, CHDCND Triều Tiên một lần nữa trì hoãn việc thực hiện thời hạn chót để vô hiệu hoá các nhà máy hạt nhân và công bố toàn bộ thông tin về chương trình hạt nhân và tuyên bố sẽ làm chậm tốc độ giải giáp vũ khí hạt nhân do sự chậm trễ của các nước trong việc cung cấp năng lượng cho nước này. Điều này một lần nữa cho thấy tính không chắc chắn của những thỏa thuận đạt được và một tương lai còn nhiều khó khăn trong tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên.

Mãi đến ngày 26-6-2008, CHDCND Triều Tiên mới trao bản báo cáo chi tiết được chờ đợi từ sáu tháng qua về chương trình hạt nhân của nước này cho giới chức Trung Quốc tại Bắc Kinh. Và ngay ngày hôm sau, trước sự chứng kiến của các nhà ngoại giao, CHDCND Triều Tiên đã tiến hành phá bỏ tháp làm nguội tại cơ sở hạt nhân Yongbyon (phía Bắc thủ đô Bình Nhưỡng). Sự phá bỏ tháp - một biểu tượng rõ nhất về chương trình hạt nhân là việc làm tích cực nhằm cam kết chấm dứt chế tạo Plutonium cho vũ hạt nhân của Bình Nhưỡng.

Trước động thái rất tích cực của CHDCND Triều Tiên, Tổng thống G. Bush đã ký Dự luật hỗ trợ tài chính cho các hoạt động tiến đến giải trừ toàn bộ cơ sở hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Theo Dự luật này, Washington tạm thời bãi bỏ các biện pháp trừng phạt đối với Bình Nhưỡng trong vòng 5 năm. Ngoài ra, Dự luật còn cho phép Mỹ viện trợ năng lượng trị giá 68 triệu USD cho CHDCND Triều Tiên trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ thông báo với Quốc hội về ý định xóa tên nước này khỏi danh sách quốc gia bảo trợ khủng bố, trong quy trình 45 ngày ([5]). Đây chính là tín hiệu tốt cho việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên trong tương lai.

3. Nguyên nhân vấn đề khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên

Gần hai thập kỷ qua, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên vẫn kéo dài, chưa giải quyết được, trở thành mối đe dọa tiềm tàng đối với an ninh khu vực. Sau các cuộc đối đầu hạt nhân nhất là vào các năm 1998, 2002, giờ đây hoà bình khu vực lại đang đứng trước một thách thức mới. Vậy đâu là nguyên nhân làm cho vấn đề này chưa được giải quyết một cách triệt để và cuộc khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên vẫn đang là đề tài nóng bỏng trên trường chính trị thế giới trong những năm qua.

Có thể nói, xung quanh vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên những nguyên nhân chính như:

Thứ nhất: Nguyên nhân sâu xa trực tiếp của mọi vấn đề xung quanh vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là: Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt, Bắc Triều Tiên ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ chi phối phía Nam. Rồi cuộc chiến tranh bùng nổ, kéo dài từ năm 1950 đến 1953, Mỹ là một bên ký Hiệp định đình chiến, Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. CHDCND Triều Tiên kiên định con đường Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên. Sự có mặt của 45.000 quân Mỹ với các phương tiện chiến tranh, căn cứ quân sự hiện đại trên lãnh thổ Hàn Quốc và các căn cứ quân sự trong khu vực. Đồng thời, Mỹ luôn thường trực một toan tính xoá bỏ CHDCND Triều Tiên, đã đặt CHDCND Triều Tiên vào tình trạng có thể xảy ra chiến tranh bất cứ lúc nào. Vì vậy, không có con đường nào khác Triều Tiên phải tìm mọi cách để tự bảo vệ mình và phát triển chương trình hạt nhân là ưu tiên hàng đầu. Đó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng hạt nhân này.

Thứ hai: Sau khi Hiệp định khung năm 1994 được ký kết, việc thực thi Hiệp định khung này không đạt được kết quả như mong muốn, do các bên chưa tin tưởng lẫn nhau và thiếu nghiêm túc chấp hành các điều khoản của Hiệp định. Mỹ không chỉ ngừng việc cung cấp 50 vạn tấn dầu diesel mà còn chậm trễ trong việc xây dựng lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ ở CHDCND Triều Tiên. Sau khủng hoảng hạt nhân 1998, Mỹ công khai cảnh giác với vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và tìm mọi cách ngăn cản nước này có thể sản xuất và đưa vào thử nghiệm tên lửa có tầm bắn trên 3000 km. Mỹ lo ngại sau khi được giúp xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ, CHDCND Triều Tiên có thể lợi dụng để luyện nhiên liệu chế tạo vũ khí hạt nhân. Vì thế, Mỹ đã thay đổi việc giúp CHDCND Triều Tiên xây dựng lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ thành nhà máy nhiệt điện khiến CHDCND Triều Tiên hết sức bất bình. Bên cạnh đó, sau khi ký Hiệp định khung, Mỹ vẫn không từ bỏ cấm vận đối với CHDCND Triều Tiên, làm cho hai nước tiếp tục ở tình trạng chiến tranh lạnh. Từ năm 1996, Mỹ không ngừng tố cáo CHDCND Triều Tiên phổ biến kỹ thuật tên lửa và phát triển tên lửa tầm xa. Sau khi lên nắm chính quyền, Tổng thống G. Bush đã áp dụng chính sách cứng rắn đối với Bình Nhưỡng, khiến quan hệ hai nước ngày càng xấu đi, đặc biệt từ sau sự kiện 11-9-2001, và sau đó trong Thông điệp Liên bang đầu năm 2002, Tổng thống Mỹ - G.Bush đã liệt CHDCND Triều Tiên vào trục ma quỷ cùng với Iran và Irắc. Mỹ tuyên bố sẵn sàng sử dụng đòn phủ đầu đối với CHDCND Triều Tiên, khiến Hiệp định khung về hạt nhân giữa hai nước hoàn toàn bị phá vỡ. Ngoài ra, một số điều khoản khác của Hiệp định khung cũng không được thực hiện một cách nghiêm túc như việc CHDCND Triều Tiên đã bí mật khôi phục chương trình hạt nhân. Có thể nói, việc không thực thi đúng các điều khoản của Hiệp định khung là nguyên nhân tiềm ẩn đã dẫn đến khủng hoảng hạt nhân này.

Thứ ba: Sự đối kháng chiến lược giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên là do mâu thuẫn về lợi ích chiến lược tích tụ lâu ngày giữa hai bên. Cả hai bên đều dùng con bài hạt nhân, trước hết là nhằm duy trì và phát huy chiến lược toàn cầu của mình, trong đó khống chế Châu Âu và Châu Á – Thái Bình Dương là mục tiêu chủ yếu do vị trí địa – chính trị bán đảo Triều Tiên chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược mới ở Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ. Trong cách nhìn của Mỹ, từ Bán đảo Triều Tiên đến Tây Á, đây là vùng tranh chấp và giành quyền khống chế của các lực lượng trên thế giới. Cùng với Irắc, thì CHDCND Triều Tiên là điểm đứng chân để Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu. Vì vậy, việc CHDCND Triều Tiên phát triển hạt nhân, bán kỹ thuật hạt nhân cho các quốc gia thù địch của Mỹ là điều Mỹ không thể chấp nhận được.

Bên cạnh đó, từ lâu Mỹ vẫn coi Bán đảo Triều Tiên là tiền duyên chiến lược khống chế Đông Bắc Á. Mỹ có ý đồ xây dựng hệ thống an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do Mỹ làm chủ đạo, lấy sự tồn tại của các căn cứ tiền duyên trước đây làm cơ sở, Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật làm trụ cột, được bổ sung bằng cơ chế an ninh đa phương. Mục tiêu của Mỹ là đưa CHDCND Triều Tiên vào quỹ đạo chiến lược này, nhằm xây dựng trật tự mới trên Bán đảo Triều Tiên theo kiểu Mỹ, khiến Bán đảo Triều Tiên phối hợp với hệ thống an ninh của Mỹ- Nhật, trở thành căn cứ chiến lược phía Tây kiềm chế Trung Quốc, phía Bắc phòng ngừa Nga-những đối thủ tiềm tàng đe dọa lợi ích chiến lược của Mỹ ở Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương, từ đó đe dọa chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Đồng thời, đối với CHDCND Triều Tiên, con bài hạt nhân là phương tiện hữu hiệu mà họ sử dụng triệt để để điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của mình, đặc biệt là việc điều chỉnh toàn diện chính sách đối ngoại. Thời gian gần đây, CHDCND Triều Tiên đang dần triển khai công cuộc cải cách kinh tế, vì thế CHDCND Triều Tiên nhận thấy rằng, chỉ có thông qua việc cải thiện quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác, họ mới có thể quan hệ được với các tổ chức tài chính quốc tế để giải quyết vấn đề vốn cho cải cách và phát triển đất nước. Đồng thời, quan hệ Mỹ - Triều tiến triển sẽ quyết định xu thế phát triển của quan hệ Nhật -Triều, Hàn-Triều. Tóm lại, việc điều chỉnh và thực hiện các chính sách đối nội và đối ngoại của CHDCND Triều Tiên trên các mặt chính trị, kinh tế, an ninh, đối ngoại đều chịu ảnh hưởng của quan hệ Mỹ - Triều. Thái độ cứng rắn của CHDCND Triều Tiên trong vấn đề hạt nhân đã phản ánh yêu cầu chính trị hợp lý của nước này mong muốn cải thiện quan hệ với Mỹ, khiến an ninh của họ có thể được đảm bảo, xây dựng lại kinh tế, hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Khi không nhận được phản ứng tích cực từ phía Mỹ, CHDCND Triều Tiên đã từng bước vận dụng sách lược ngoại giao khủng hoảng hạt nhân, nhưng ý đồ chiến lược này lại xung đột với mục tiêu chiến lược an ninh mới của Mỹ và trong cuộc khủng hoảng này, quyền chủ động giải quyết khủng hoảng hạt nhân luôn thuộc về Mỹ. Cho dù Mỹ điều chỉnh chính sách đối với CHDCND Triều Tiên như thế nào, thì mục tiêu cơ bản của Mỹ vẫn là nắm quyền chủ đạo công việc ở Bán đảo Triều Tiên, củng cố sự hiện diện quân sự, kiềm chế các nước lớn trong khu vực.

Thứ tư: Ngoài ý đồ của Mỹ và CHDCND Triều Tiên, thì vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên còn bị chi phối bởi ý đồ và lợi ích của các nước lớn khác trong khu vực như: Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Quan điểm của Trung Quốc: Việc giải quyết vấn đề khủng hoảng hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên có ý nghĩa to lớn đối với Trung Quốc. Với mong muốn duy trì hoà bình, ổn định ở Bán đảo Triều Tiên, tạo môi trường xung quanh ổn định có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Trung Quốc. Ngược lại, Bán đảo này bất ổn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh Đông Bắc Á khiến cho việc xây dựng và phát triển đất nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng, và nếu khủng hoảng leo thang, kéo dài hay căng thẳng liên tục đều không phù hợp với lợi ích lâu dài của Trung Quốc, đồng thời nếu chiến tranh Mỹ- Triều xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vùng Đông Bắc Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải điều chỉnh lực lượng vũ trang ở khu vực này, cùng với nó là vấn đề người tị nạn sẽ ảnh hưởng đến kinh tế và anh ninh của Trung Quốc. Đồng thời, nếu kế hoạch phát triển hạt nhân của CHDCND Triều Tiên thành công, rất có thể Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan cũng sẽ phát triển loại vũ khí này đẩy Trung Quốc vào thế bất lợi. Do vậy, quan điểm nhất quán của Trung Quốc khẳng định: Vì lợi ích quốc gia, Trung Quốc cần phải ngăn chặn một cuộc chiến tranh không cần thiết. Hơn nữa, với tư cách là nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (LHQ) và là nước lớn trong khu vực, Trung Quốc có nghĩa vụ ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, bảo vệ hoà bình, ổn định của khu vực và trên thế gới. Lập trường của Trung Quốc là không tán thành Bán đảo Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân, cũng không đồng ý để Mỹ đe dọa vũ trang đối với CHDCND Triều Tiên, phải tính tới lợi ích thiết thực của Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong quan hệ với CHDCND Triều Tiên. Trung Quốc không đứng về bên nào, cũng không đứng ngoài cuộc. Vì lợi ích quốc gia, hoà bình Bán đảo Triều Tiên và ổn định của toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, Trung Quốc đã nhanh chóng và tích cực xúc tiến một chiến dịch vận động ngoại giao nhằm thuyết phục Mỹ và CHDCND Triều Tiên ngồi vào thương lượng và sẵn sàng tham gia tích cực vào giải quyết cuộc khủng hoảng này.

Quan điểm của Nga: Nga là nước láng giềng phía Bắc của CHDCND Triều Tiên, bất kỳ một cuộc khủng hoảng nào cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vùng Viễn Đông của Nga. Hơn nữa, Nga cũng là nước thường trực Hội đồng bảo an LHQ và hiện nay Nga đang tập trung phát triển kinh tế. Vì vậy, một cuộc chiến tranh nổ ra ở Bán đảo Triều Tiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Nga, đồng thời, nếu CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân sẽ tạo ra phản ứng lan truyền, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có thể phát triển loại vũ khí này làm cho khu vực bước vào cuộc chạy đua và phổ biến vũ khí hạt nhân, đe dọa an ninh khu vực, mất cân bằng sức mạnh quân sự, tác động đến lợi ích an ninh của Nga. Mục tiêu chiến lược của Nga ở Bán đảo Triều Tiên là tạo ra môi trường hoà bình, ổn định, tăng cường vai trò ảnh hưởng của Nga trong khu vực, tạo lợi ích kinh tế,… . Xuất phát từ những lợi ích về kinh tế, chính trị, quân sự an ninh,…, lập trường cơ bản của Nga trong giải quyết khủng hoảng là phản đối CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, duy trì phi hạt nhân hoá trên Bán đảo Triều Tiên, tuân thủ nghiêm túc NPT, hợp tác với IAEA, quan tâm đến vấn đề an ninh của CHDCND Triều Tiên, cung cấp viện trợ cần thiết cho nước này. Tuy nhiên, Nga chủ trương đối thoại đa phương để giải quyết vấn đề hạt nhân, phản đối gây sức ép và sử dụng vũ lực.

Quan điểm của Nhật Bản: Nhật Bản là nước láng giềng phía Đông cách Bán đảo Triều Tiên một vùng biển và là đồng minh thân cận, quan trọng của Mỹ ở khu vực Đông Bắc Á. Tình hình Bán đảo Triều Tiên xấu đi sẽ tác động tới an ninh, ổn định của Nhật Bản. Mặc khác, Nhật Bản cũng muốn lợi dụng vấn đề hạt nhân của Triều Tiên để bảo vệ lợi ích lâu dài của mình, đồng thời Nhật Bản cũng không muốn vấn đề này được nhanh chóng giải quyết. Nhật Bản ủng hộ cơ chế đàm phán đa phương nhằm đưa các vấn đề bất đồng giữa Nhật Bản và CHDCND Triều Tiên vào bàn thương lượng.

Quan điểm của Hàn Quốc: Với Hàn Quốc, vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên là vấn đề ngoại giao nan giải nhất kể từ sau Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Điều lo ngại lớn nhất của Hàn Quốc là chính sách quá cứng rắn của Mỹ, bởi vì chính sách kiềm chế đặc biệt đối với CHDCND Triều Tiên có thể làm đất nước này đổ vỡ, suy sụp kinh tế, dẫn tới chiến tranh. Bùng nổ căng thẳng giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên đe dọa hòa bình, ổn định trên Bán đảo Triều Tiên và trực tiếp tác động đến mục tiêu tái thống nhất đất nước mà cả hai miền Triều Tiên đang theo đuổi. Hàn Quốc muốn Mỹ và Triều Tiên giải quyết vấn đề này bằng biện pháp hoà bình nhằm phi hạt nhân hóa trên Bán đảo Triều Tiên, để quá trình tái thống nhất đất nước diễn ra suôn sẻ. Hàn Quốc có định hướng khuyến khích CHDCND Triều Tiên mở cửa, cải cách để đổi lấy viện trợ kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các nước có liên quan và phải nhìn nhận thật công bằng xem đã mở cho CHDCND Triều Tiên lối thoát thỏa đáng hay chưa. Vì mục tiêu lâu dài của mình, Hàn Quốc đã thể hiện thái độ tích cực trong giải quyết cuộc khủng hoảng mặc dù phải dựa vào Mỹ và đồng minh để ngăn chặn CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân. Hàn Quốc phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề này.

Thứ năm: Ngoài những nguyên nhân chủ yếu như trên, thì hiện nay với những diễn biến phức tạp và khó lường của tình hình thế giới, vấn đề tự bảo vệ mình để phát triển đất nước trở thành một nhu cầu cấp thiết. Và để tự bảo vệ mình trước các thế lực thù địch đòi hỏi các nước phải tự trang bị cho mình những trang thiết bị vũ khí hiện đại nhất, trong đó vũ khí hạt nhân là một con bài chiến lược đặc biệt quan trọng để răn đe các thế lực thù địch. Chính vì vậy rất nhiều quốc gia trên thế giới tìm mọi cách để có được công nghệ sản xuất và chế tạo vũ khí hạt nhân, trong đó CHDCND Triều Tiên cũng không phải là một ngoại lệ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân để CHDCND Triều Tiên phát triển chương trình hạt nhân của mình.

Tóm lại, tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên sẽ phụ thuộc rất lớn vào lợi ích và mối quan hệ giữa Mỹ-Nga-Trung Quốc-Nhật Bản và Hàn Quốc, trong đó cặp quan hệ Mỹ - Trung đóng vai trò quyết định.

Như vậy, từ thực trạng và nguyên nhân vấn đề như trên, có thể thấy rằng tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên là một bài toán hết sức khó khăn và phức tạp, nhất là sau hàng loạt các vụ thử hạt nhân và phóng tên lửa của Triều Tiên vừa qua và những phát ngôn cứng rắn của Chính phủ Triều Tiên trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên, thực hiện phi hạt nhân hoá Bán đảo Triều Tiên, tiến tới thống nhất hai miền, xây dựng một Bán đảo Triều Tiên hoà bình, ổn định và thịnh vượng không chỉ là mong muốn của nhân dân hai miền Triều Tiên mà còn là nguyện vọng của cộng đồng quốc tế. Phi hạt nhân Bán đảo Triều Tiên là một tiến trình không thể đảo ngược. Chính vì vậy, chúng ta cùng hi vọng trong tương lai không xa sẽ được chứng kiến một Bán đảo Triều Tiên hoà bình, thống nhất, ổn định đóng góp chung vào sự ổn định và thịnh vượng của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Có thể nói, để giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của tất cả các bên liên quan, trong đó đặc biệt là Mỹ và CHDCND Triều Tiên.

 

NGUYỄN VĂN TUẤN

(Học viện Chính trị - hành chính khu vực III)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Nóng bỏng Bán đảo Triều Tiên, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 2004.

2. Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ xxi: vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005.

3. Tạp chí báo cáo viên của Ban Tuyên giáo Trung ương - trung tâm thông tin tuyên giáo, số 07-2008.

4. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3(85)3-2008.

5. Báo Nhân dân điện tử, ngày 18/9/2007.



([1]) Nóng bỏng bán đảo Triều Tiên, Nxb Thông tấn, H, 2004, tr. 84.

([2]) Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI - Vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nxb, Lý luận Chính trị, H. 2005, tr. 140.

([3]) Báo Nhân dân điện tử, ngày 18/9/2007.

([4]) Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3 (85) 3 – 2008, tr. 31.

([5]) Tạp chí Báo cáo viên của Ban tuyên giáo Trung ương – Trung tâm Thông tin Tuyên giáo, số 7 – 2008, tr.41.

0thảo luận