Trang chủ

Hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản:Cơ hội và thách thức

Đăng ngày: 18-07-2023, 14:34 | Danh mục: Bài viết tạp chí, Năm 2022, Số 4

Nguyễn Thị Thanh Lam1, Nguyễn Thị Ánh2

Tóm tắt: Là một trong những quốc gia có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất của Việt Nam, Nhật Bản thường xuyên ủng hộ và hỗ trợ nước ta trong các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, các nhà đầu tư Nhật Bản cũng dành nhiều sự quan tâm tới lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam. Với lợi thế về điều kiện phát triển nông nghiệp ở Việt Nam và ưu thế về tiến bộ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp của Nhật Bản, hai quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu trong hợp tác nông nghiệp. Bài viết đề cập tới thực trạng hợp tác phát triển nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản, đánh giá hiệu quả hợp tác cùng cơ hội và thách thức cho hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia.

Từ khóa: Hợp tác nông nghiệp, Việt Nam, Nhật Bản

 


 

Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản nhanh chóng phát triển trên nhiều lĩnh vực và có xu hướng mở rộng hợp tác cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong đó, nông nghiệp Việt Nam cũng nhận được không ít quan tâm từ Nhật Bản.[1] [2]

Những năm trở lại đây, lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam được Nhật Bản chú ý và tăng cường hợp tác không chỉ ở viện trợ quốc gia mà còn ở cấp độ đầu tư tư nhân với các dự án đa dạng quy mô tại các địa phương. Bên cạnh đầu tư trực tiếp, Nhật Bản còn đặc biệt quan tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực này bằng việc đưa chuyên gia Nhật sang hướng dẫn nông dân Việt hoặc đưa thực tập sinh Việt sang Nhật Bản học và làm việc. Đổi lại, Việt Nam cũng ban hành nhiều chính sách mở rộng, thu hút hợp tác nông nghiệp. Các chính sách tái cơ cấu nông nghiệp; thu hút đầu tư; xúc tiến thương mại; khuyến khích xuất khẩu nông sản không chỉ gia tăng giá trị sản xuất trong nước mà còn thu hút đầu tư nước ngoài.

Đối với Việt Nam, việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đã và đang đem lại thành quả tích cực. Cụ thể, công tác đẩy mạnh thâm canh những năm 1990 đã giúp Việt Nam đảm bảo an ninh lương thực, từ một nước thiếu đói vươn lên trở thành quốc gia có sản lượng lương thực bình quân đầu người tương đối cao so với nhóm nước thu nhập trung bình. Xuất khẩu nông nghiệp Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI cũng bùng nổ mạnh mẽ, đưa Việt Nam lọt top 5 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Có thể thấy, sự quan tâm của Nhật Bản tới nông nghiệp Việt Nam là thời cơ thuận lợi để nước ta chú trọng hơn nữa vào nông nghiệp, tạo đà phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế.

Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản thời gian vừa qua, bài viết chỉ ra các cơ hội và thách thức trong quan hệ hợp tác nông nghiệp hai nước, làm tiền đề đóng góp những kiến nghị phù hợp về chính sách trong thời gian tới.

1.       Thực trạng quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản

Quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam – Nhật Bản đã trải qua rất nhiều giai đoạn với những dấu mốc quan trọng. Tuy nhiên, nhìn chung, có thể phân chia thành hai giai đoạn chính: trước năm 2014 và từ năm 2014 tới nay. Trong đó, năm 2014 là cột mốc đáng chú ý với dấu ấn của cuộc đối thoại cấp cao hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất, nâng quan hệ hợp tác nông nghiệp giữa hai nước từ viện trợ đơn thuần lên một tầm cao mới với những kế hoạch mang tính chiến lược và dài hạn.

1.1. Giai đoạn trước năm 2014

Trước năm 2014, khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn là 18,7%, ở mức cao so với tỷ lệ 3% ở khu vực đô thị[3]. Nông thôn Việt Nam đứng trước nhiều thách thức: phát triển cân bằng giữa nông thôn - thành thị; nâng cao chất lượng, an toàn vệ sinh nông lâm thủy sản; cải thiện sinh kế và môi trường sống nông thôn; xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản. Trước tình hình này, Nhật Bản đã triển khai hàng loạt các dự án hỗ trợ Việt Nam với mục tiêu tập trung giải quyết từng vấn bất cập.

Trong mục tiêu nâng cao chất lượng và an toàn vệ sinh, Nhật Bản đã tài trợ và triển khai các dự án với mục tiêu hỗ trợ và cải tiến chất lượng sản phẩm cây trồng Việt Nam như:

(1) Dự án nâng cao năng lực quản lý ngành trồng trọt nhằm cải thiện sản lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng (2010-2014) tổng đầu tư 67 tỷ đồng với mục tiêu: bảo hộ giống cây trồng và sản phẩm cây trồng an toàn. Sau thời gian thực hiện, về cơ bản hầu hết cán bộ và nông dân thay đổi nhận thức về sản xuất rau an toàn, có khả năng ghi chép nhật ký đồng ruộng và áp dụng sản xuất theo mô hình nông nghiệp tốt.

(2) Dự án phát triển cây trồng cải tiến cho trung du và miền núi phía Bắc (từ 2010): được triển khai tại các tỉnh gồm: Thái Nguyên, Sơn La, Bắc Giang, Lào Cai và Sóc Trăng với mục tiêu nâng cao hệ thống chọn lọc giống lúa, tìm ra những dòng triển vọng có thể thích nghi với điều kiện của các vùng này. Dự án đã rút ngắn thời gian và chi phí từ chọn giống tới khi được công nhận; đồng thời tạo ra giống lúa quốc gia thứ hai được công nhận.

Trong mục tiêu hỗ trợ cải thiện sinh kế nông thôn, Việt Nam nhận được hỗ trợ từ Nhật Bản trong các dự án hợp tác kỹ thuật phát triển kinh tế địa phương với trọng tâm vào các khu vực miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, và vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ. Cụ thể:

(1) Dự án nâng cao năng lực của Đại học Bách khoa Hồ Chí Minh để tăng cường liên kết đại học và cộng đồng - giai đoạn 1, 2 (2005-2012): kết hợp giữa Đại học Bách khoa Hồ Chí Minh và Đại học Khoa học Kỹ thuật Toyohashi (giai đoạn 1) và Đại học Kumamoto (giai đoạn 2), triển khai hợp tác qua hoạt động liên kết cộng đồng để phát triển địa phương. Trong khuôn khổ dự án, mỗi năm có 12 công trình nghiên cứu với đối tượng là 5 tỉnh đối tác ở miền Nam. Có thể kể một số công trình tiêu biểu như: “Nghiên cứu chiết xuất collagen từ da cá để ứng dụng trong các lĩnh vực thực phẩm, y tế, mỹ phẩm” của khoa Khoa học Đại học Bách Khoa Hồ Chí Minh với tỉnh An Giang; dự án “Phát triển chất phụ gia để lọc bia sử dụng Diatomite” hợp tác với Lâm Đồng.

(2) Dự án nâng cao năng lực phát triển nông nghiệp và nông thôn có sự tham gia của người dân nhằm giảm nghèo ở khu vực Tây Nguyên Việt Nam (2009-2014): phối hợp thực hiện bởi Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, huyện Mang Yang với mục tiêu cải thiện điều kiện sống đồng bào thiểu số với thành quả tổ chức thành công lớp học về phân tích tình hình, lập kế hoạch sản xuất nông nghiệp; tăng cường sự kết hợp giữa người dân, đoàn thể và cán bộ địa phương thông qua các hoạt động giám sát, đánh giá thực trạng nông nghiệp địa phương.

Trong mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, Nhật Bản tập trung hỗ trợ địa phương có cơ sở hạ tầng yếu kém đồng thời hỗ trợ người dân xây dựng cơ chế sử dụng hiệu quả và bền vững. Trong đó, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã hỗ trợ Việt Nam với các dự án hợp tác vốn vay để trang bị cơ sở hạ tầng cho đường sá, cấp điện, cấp nước, hệ thống thủy lợi quy mô nhỏ... Một số dự án tiêu biểu là Dự án thủy lợi Phan Rang (1963-1973); Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và nâng cao mức sống (I, II, III) (1995-2002); Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người nghèo (I, II, III) (2002)...

1.2. Giai đoạn 2014- nay

Kể từ năm 2014 đến nay, quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản đã có những chuyển biến mang tính chiến lược và tầm nhìn dài hạn thể hiện thông qua các cuộc đối thoại cấp cao. Tiêu biểu là Đối thoại cấp cao hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất (2014) xác nhận thành lập tầm nhìn trung và dài hạn về thành lập chuỗi giá trị lương thực tại Việt Nam; Đối thoại cấp cao hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản lần thứ hai (2015) tổ chức tại Tokyo đã chấp thuận và ký kết “Tầm nhìn trung và dài hạn về hợp tác nông nghiệp giữa Việt Nam và Nhật Bản giai đoạn 1 (2015-2019)”... và gần đây nhất là Đối thoại cấp cao hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản lần thứ 5 (2020) tiếp tục ký kết “Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 2 (2020-2024). Một số dự án hợp tác nông nghiệp nổi bật trong giai đoạn này bao gồm:

(1) Dự án tăng cường năng lực kiểm nghiệm cho Trung tâm Kiểm nghiệm kiểm chứng và Tư vấn chất lượng nông lâm thủy sản: Nhật Bản thỏa thuận viện trợ không hoàn lại 1,204 tỷ yên cho Việt Nam để đảm bảo an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản. Dự án được tài trợ các trang thiết bị cần thiết để xây dựng hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản cùng với các cơ sở vật chất để sử dụng hiệu quả các thiết bị này, nhằm mở rộng hệ thống kiểm soát thực phẩm, nâng cao năng lực kiểm nghiệm[4].

(2) Dự án phát triển hệ thống sản xuất sắn bền vững thông qua quản lý sâu bệnh tại Việt Nam, Campuchia và Thái Lan có tổng vốn ODA hơn 125 tỷ đồng từ Nhật Bản và 25 tỷ đồng vốn đối ứng của Việt Nam kéo dài 5 năm từ 2016 với quy mô toàn quốc. Bốn nội dung chủ yếu của dự án là: phát hiện các tác nhân gây bệnh hại sắn và phát triển hệ thống cảnh báo bệnh trong khu vực; sinh thái quần thể và quản lý côn trùng hại sắn; thiết lập hệ thống giống sắn để cung cấp sắn sạch bệnh cho nông dân; chuyển giao công nghệ và khuyến nông.

(3) Hỗ trợ phát triển mô hình nông nghiệp của khu vực ngoại ô thành phố Hà Nội và tỉnh Nam Định: được thực hiện bởi Liên minh Hợp tác xã Nông nghiệp tỉnh Ibaraki và Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thành phố Hà Nội, tỉnh Nam Định với mục tiêu đào tạo và phát triển nhân lực trong khu vực dự án về mô hình nông nghiệp ngoại ô mang nét đặc trưng của tỉnh Ibaraki, thông qua việc tổ chức đào tạo về kỹ thuật sản xuất và kênh phân phối sản phẩm nông nghiệp.

1.3. Các chính sách hỗ trợ hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia

Xuyên suốt hai giai đoạn này, quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản không ngừng được nâng cao và đẩy mạnh từ cấp trung ương tới địa phương. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước, hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực nông nghiệp cũng mang lại nhiều thành quả tích cực. Cụ thể, vào tháng 1/2017, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Abe Shinzo tới Việt Nam, hai quốc gia đã thống nhất mở cửa thị trường trao đổi giữa thanh long ruột đỏ Việt Nam và lê Nhật Bản.

Cũng trong giai đoạn này, hàng loạt thỏa thuận hợp tác nông nghiệp cấp độ địa phương giữa hai quốc gia đã được ký kết, kéo theo đó là rất nhiều các dự án đầu tư quan trọng của Nhật Bản vào Việt Nam. Các thỏa thuận tiêu biểu có thể kể đến như: Bản ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tỉnh Ibaraki về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp giữa các tỉnh của Việt Nam với tỉnh Ibaraki; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản; Bản ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tỉnh Nagano về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp; Bản ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với tỉnh Wakayama về tăng cường hợp tác nông nghiệp.

1.4. Đánh giá thực trạng

1.4.1. Thành tựu

Nhờ có hợp tác nông nghiệp với Nhật Bản, nông nghiệp Việt Nam được cải thiện một cách đáng kể và từng bước tái cơ cấu, phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.

Trong giai đoạn trước 2014, thành công lớn nhất của hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản là thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo thông qua phát triển nông nghiệp và địa phương. Thành tựu nổi bật giai đoạn này phải kể tới dự án thủy lợi Phan Rang, trải qua 50 năm nhưng cho đến nay vẫn đảm bảo việc tưới tiêu cho đồng ruộng. Nhờ có thành công này, Chính phủ đã quyết định phát huy những ưu điểm của việc hợp tác vào việc xây dựng nhà máy thủy điện Đại Ninh - thủy lợi Phan Ri Phan Thiết.

Trong giai đoạn từ 2014 đến nay, việc triển khai hợp tác nông nghiệp thông qua các tầm nhìn không chỉ hỗ trợ đắc lực cho nông nghiệp Việt Nam mà còn nâng quan hệ hợp tác nông nghiệp lên một tầm cao mới. Không chỉ dừng lại ở viện trợ, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam trong công cuộc nâng cấp hạ tầng và tăng cường đào tạo nhân lực phát triển nông nghiệp bền vững. Đồng thời, các tầm nhìn cũng là cơ hội tốt để Việt Nam mở rộng và thúc đẩy đầu tư tư nhân. Số lượng tổ chức và công ty tư nhân tham gia các cuộc đối thoại tăng đều mỗi năm, từ 11 công ty tham gia đối thoại lần thứ nhất tăng lên 23 công ty tại đối thoại lần thứ hai và cho tới đối thoại lần thứ năm gần đây nhất với sự tham gia của 100 doanh nghiệp ở cả hai nước.

Tầm nhìn 2015-2019 đã đánh dấu bước tiến mới trong quan hệ hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia với tầm nhìn dài hạn và chiến lược. Tầm nhìn đã tập trung các biện pháp hỗ trợ và mục tiêu hợp tác theo ba trọng tâm chính: xây dựng chuỗi giá trị thực phẩm; ứng phó với biến đổi khí hậu  và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Kết quả là, trong giai đoạn từ 2015-2019, hai bên đã thúc đẩy được trao đổi nông sản, với tốc độ xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản tăng từ 10 - 12%/năm, cụ thể trong năm 2019 là 3,5 tỷ USD. Ngoài ra, đã có 11 dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn ODA không hoàn lại và dự án vốn vay của Nhật Bản trong khuôn khổ Tầm nhìn giữa hai bộ, với tổng số vốn khoảng 750 triệu USD[5].

Tiếp nối thành công đó, tầm nhìn 2020-2024 mở rộng nhiều mục tiêu mới: hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông nghiệp: các công trình thuỷ lợi, hạ tầng hỗ trợ chuỗi giá trị nông nghiệp; hỗ trợ bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; thúc đẩy đầu tư của doanh nghiệp tư nhân, ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực quản trị chuỗi giá trị nông nghiệp.

Tính đến tháng 11/2021, nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản gồm 6 nhóm chính: rau quả, hạt điều, cà phê, hạt tiêu, sắn và các sản phẩm từ sắn, cao su. Trong đó, một số mặt hàng thế mạnh của Việt Nam có mức tăng trưởng tương đối cao so với cùng kỳ năm trước. Ví dụ hạt điều tăng 62,84%; cà phê tăng 20,3%... Một số mặt hàng rau quả như vải thiều, thanh long... không chỉ dừng lại ở việc thâm nhập vào thị trường khó tính như Nhật Bản mà còn chiếm được sự ưa chuộng của người tiêu dùng nước này. Theo thống kê của Cục Bảo vệ thực vật, đến ngày 29/5/2021, các doanh nghiệp đã xuất khẩu được 50 tấn vải thiều sang Nhật Bản, dự báo sản lượng xuất khẩu năm 2021 có thể tăng gấp nhiều lần.

1.4.2. Hạn chế

Bên cạnh thành tựu, hợp tác nông nghiệp hai nước cũng gặp một số hạn chế. Xét trong giai đoạn trước năm 2014, hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia còn mang tính chất nhỏ lẻ và rời rạc. Mục tiêu hợp tác trong giai đoạn này chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam giải quyết những bất cập trong lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án hợp tác thường có xu hướng viện trợ với đối tượng chủ yếu nhằm tới các khu vực dân tộc thiểu số như miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ.

Trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay, mặc dù việc ký kết tầm nhìn đã đưa quan hệ hợp tác nông nghiệp hai nước lên một tầm cao mới và đặt được nhiều thành tựu nhưng nhìn chung, tỷ lệ đầu tư của Nhật Bản vào nông nghiệp còn thấp so với các ngành khác. Nhóm hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản chỉ dừng lại ở 6 nhóm chính trong khi một số mặt hàng nông sản thế mạnh của Việt Nam như gạo, chè, sản phẩm chăn nuôi vẫn chưa có cơ hội xuất khẩu và tiến sâu vào thị trường Nhật Bản.

Tính chung giá trị xuất khẩu nông sản chỉ chiếm chưa tới 2% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật Bản. Nguyên nhân do Nhật Bản ưu tiên nhập khẩu nông sản từ các thị trường lớn như Mỹ và Trung Quốc. Nhìn chung, nhiều mặt hàng nông sản là thế mạnh của Việt Nam và trong thời gian tới khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) với Nhật Bản có hiệu lực, nước ta sẽ có thêm lợi thế cạnh tranh so với các thị trường lớn. Như vậy, tiềm năng xuất khẩu nông sản từ Việt Nam sang Nhật Bản tương đối lớn.

2. Đánh giá cơ hội và thách thức

2.1. Cơ hội hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản

2.1.1. Thúc đẩy hợp tác thương mại song phương trên lĩnh vực nông nghiệp

Tới nay, Việt Nam và Nhật Bản đang là thành viên của 3 FTA song phương, đa phương, bao gồm: Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA) (2008), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) (2008) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) (2018). Việc hai nước cùng tham gia hiệp định này là điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao thương giữa hai quốc gia, đặc biệt trên lĩnh vực nông nghiệp do cơ cấu nông sản xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản không cạnh tranh mà bổ sung cho nhau. Đặc biệt, so với một số quốc gia khác như Trung Quốc hay Mỹ thì Việt Nam lại có ưu thế cạnh tranh hơn do được ưu đãi thuế quan theo cam kết của các FTA song phương và đa phương với Nhật Bản, đặc biệt là CPTPP.

2.1.2. Thu hút đầu tư nông nghiệp sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực

Tham gia CPTPP, cả Việt Nam và Nhật Bản gần như phải mở cửa toàn bộ ngành nông nghiệp cho các nước thành viên. Nông sản hai nước phải cạnh tranh về cả giá, quy mô và chất lượng. Về phía Nhật Bản, quy mô sản xuất nông nghiệp nước này còn nhiều hạn chế. Nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 1% vào GDP và phần lớn lương thực đến từ nông sản nhập khẩu. Nhật Bản có tỷ trọng nhập khẩu nông sản lớn thứ tư thế giới với nhu cầu chủ yếu là thịt, rau củ đã qua chế biến. Trong khi đó, tiềm năng phát triển nông nghiệp Việt Nam còn rất lớn do điều kiện thiên nhiên đa dạng và lao động nông nghiệp dồi dào. Riêng với chế phẩm rau củ, Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 thế giới, với lợi thế kết nối các thị trường nhu cầu tiêu dùng lớn như ASEAN, Trung Quốc... Hơn nữa nhu cầu về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao ngày càng tăng mạnh. Với doanh nghiệp Nhật Bản, đây là điều quan trọng cả về chiến lược và kinh tế.

2.1.3. Hợp tác và thúc đẩy phát triển ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao

Đổi mới khoa học công nghệ và phát triển nông nghiệp công nghệ cao được đánh giá là một trong những giải pháp then chốt để nâng cao năng suất cùng giá trị nông sản.

Về phía Việt Nam, nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của nông nghiệp công nghệ cao, nền nông nghiệp ứng dụng tiến bộ khoa học vào quy trình sản xuất nhằm tăng hiệu quả kinh. Nếu ứng dụng thành công, nông nghiệp công nghệ cao có thể đóng góp vào phát triển bền vững bằng cách tăng sản lượng và chất lượng nông sản; tạo việc làm và gia tăng giá trị, thương hiệu cho địa phương; hình thành nguồn nông sản chủ lực quốc gia; đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nắm rõ tầm quan trọng này, Chính phủ đã có những định hướng chính sách cụ thể. Ví dụ như Quyết định số 176/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020. Đến nay, cả nước có ba khu nông nghiệp công nghệ cao được phê duyệt tại Hậu Giang, Phú Yên và Bạc Liêu, các khu nông nghiệp công nghệ cao còn lại do Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập. Đồng thời cũng đang xem xét thành lập ba khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Thái Nguyên, Quảng Ninh và Lâm Đồng[6]. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030 cũng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại…; chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường”.

Về phía Nhật Bản, lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao nước này được nhiều nước trên thế giới học hỏi với lợi thế về tự động hóa trong toàn bộ các khâu sản xuất nông nghiệp, hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp và thường xuyên sử dụng robot trong nông nghiệp.

2.2. Thách thức trong quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản

2.2.1. Tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế

Là một trong những nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất tại Việt Nam nhưng Nhật Bản mới chỉ dành một quỹ hạn chế dành cho nông nghiệp. Tính đến tháng 10/2017, Nhật Bản mới đầu tư được 42 dự án trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 238,8 triệu USD, chiếm 6,8% tổng vốn FDI vào nông nghiệp[7]. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này bao gồm: (1) các doanh nghiệp FDI khó tiếp cận đất nông nghiệp để xây dựng vùng nguyên liệu ổn định; (2) các dịch vụ hỗ trợ logistic và cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế; (3) chất lượng nguồn lao động tại các địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp nông nghiệp áp dụng công nghệ cao.

2.2.2. Thị trường Nhật Bản đòi hỏi nông sản đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt

Xu hướng hội nhập đòi hỏi nông nghiệp Việt Nam phải tuân thủ tiêu chuẩn thị trường trong cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Thị trường Nhật Bản rất khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu. Để được chấp nhận, nông sản Việt Nam cần đáp ứng 4 bộ luật về an toàn thực phẩm (Luật An toàn thực phẩm cơ bản, Luật vệ sinh thực phẩm, Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản và Luật khuyến khích Y tế). Nông sản tươi của Việt Nam là mặt hàng khó thâm nhập vào Nhật Bản nhất do nước sở tại quan ngại sự lây lan dịch bệnh và sâu hại trong sản phẩm; đồng thời khâu kiểm duyệt kéo dài cũng ảnh hưởng tới chất lượng nông sản trong khi công tác bảo quản nông sản của nước ta còn hạn chế. Hiện tại, Nhật Bản chỉ mới cho phép nhập khẩu một số loại quả tươi có hạt từ Việt Nam như xoài, thanh long, vải thiều.

2.2.3. Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu

Về phía Nhật Bản, do vị trí địa lý nên nước này thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai. Với biểu hiện ngày càng rõ rệt của biến đổi khí hậu, Nhật Bản càng tăng nguy cơ đối mặt với thiên tai. Nhiệt độ nóng lên, nước biển dâng, những thay đổi trong các mô hình mưa và tuyết rơi... sẽ ảnh hưởng đến Nhật Bản ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là nông nghiệp.

Về phía Việt Nam, nước ta đứng thứ 6 trong danh sách quốc gia chịu ảnh hưởng nặng bởi biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu khiến nhiệt độ tăng cao, tình trạng sâu bệnh và hạn hán nghiêm trọng hơn được dự đoán sẽ làm sản lượng lúa gạo trong giai đoạn 2016-2045 giảm 4,3%[8] so với mức sản lượng khi không có biến đổi khí hậu. Ngoài ra, gia tăng mực nước biển và xâm nhập mặn có nguy cơ làm thay đổi cơ cấu vùng sản xuất lúa, hệ thống chăn nuôi được dự báo sẽ bị ảnh hưởng không chỉ từ sự thay đổi nhiệt độ mà còn từ các tác động liên quan đến bệnh dịch do tác động của biến đổi khí hậu.

2.3. Khuyến nghị

Trong xu thế toàn cầu hóa, việc đối mặt với thách thức và tìm ra giải pháp phù hợp là yếu tố quan trọng để duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác bền vững, nhất là trong nông nghiệp. Từ những cơ hội và thách thức trên, Việt Nam và Nhật Bản cần thúc đẩy các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia.

Một là, điều chỉnh các chính sách khuyến khích đầu tư để phù hợp với đặc thù từng địa phương. Đồng thời, tận dụng tối đa các cam kết trong các hiệp định, đây là nền tảng để nghiên cứu chiến lược và thúc đẩy hợp tác thương mại hai chiều giữa trên lĩnh vực nông nghiệp. Về phía Việt Nam, nước ta có thể tạo cơ hội cho nông sản trong nước tiếp xúc với thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xúc tiến thương mại cấp địa phương như hội chợ, triển lãm nông sản... Bên cạnh đó, cả hai nước cũng cần căn cứ vào đặc thù của doanh nghiệp địa phương để triển khai các hoạt động và chính sách hỗ trợ hợp lý như hỗ trợ đào tạo nhân lực, nghiên cứu và phát triển thị trường sau đại dịch...

Hai là, tăng cường hệ thống tổ chức và năng lực quản lý rủi ro an toàn thực phẩm. Báo cáo “Quản lý rủi ro an toàn thực phẩm Việt Nam – thách thức và cơ hội” của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra một số lĩnh vực cần cải tiến quy trình đánh giá dựa trên rủi ro, quản lý và truyền thông. Đối với vấn đề này, Việt Nam có thể học tập mô hình quản trị theo chuỗi từ Nhật Bản, tạo ra một quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm chặt chẽ và đồng bộ từ sản xuất tới kinh doanh. Đồng thời, Việt Nam cũng nên khuyến khích đổi mới sáng tạo trong chuỗi giá trị nông nghiệp, xây dựng hợp tác theo hướng phát triển xuất khẩu gắn liền với thương hiệu ngành hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu trong bối cảnh công nghiệp 4.0.

Ba là, trao đổi, hợp tác và ứng dụng mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu. Tại Việt Nam, phần lớn các công nghệ được áp dụng với tỷ lệ thấp hoặc trung bình, một số thực hành mô hình này chỉ mới áp dụng trên quy mô vừa và nhỏ. Trong khi đó, đứng trước thách thức biến đổi khí hậu, nông nghiệp Nhật Bản từ lâu đã có các kế hoạch ứng phó như dự thảo kế hoạch và thông qua bộ luật chống biến đổi khí hậu; ứng dụng hệ thống robot, máy bay không người lái để canh tác chính xác... Về điểm này, Việt Nam cần học hỏi và tăng cường trao đổi với nước bạn để có thêm kinh nghiệm áp dụng với tình hình trong nước. Một số kinh nghiệm cần học hỏi từ Nhật Bản như mô hình tam nông, mô hình hợp tác xã, ứng dụng công nghệ trong phát triển nông nghiệp hiện đại.

Kết luận

Có thể nói, quan hệ hợp tác nông nghiệp Việt Nam – Nhật Bản đang trên đà phát triển tương đối thuận lợi. Từ hợp tác đầu tư nhỏ lẻ và rời rạc trước năm 2014, hợp tác nông nghiệp hai nước đã chuyển sang các kế hoạch và tầm nhìn dài hạn, có tính chiến lược hơn trong giai đoạn từ sau năm 2014 tới nay. Với việc phát huy các thành tựu đạt được và khắc phục các hạn chế thông qua công tác điều chỉnh chính sách, nâng cao năng lực và tăng cường vận dụng, trao đổi ứng dụng tiến bộ khoa học, quan hệ hợp tác nông nghiệp hai nước trong thời gian tới dự kiến sẽ còn đem lại nhiều thành quả tích cực và vượt trội hơn nữa.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, “Nông sản thực phẩm của Việt Nam có chỗ đứng tại Nhật Bản”, Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam,    https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/nong-san-thuc-pham-cua-viet-nam-co-cho-dung-tai-nhat-ban-582298.html.
  2. Bình An, “Rau quả chế biến của Việt Nam còn nhiều tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-trong-nuoc/rau-qua-che-bien-cua-viet-nam-con-nhieu-tiem-nang-tang-truong-xuat-khau.html.
  3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, “Việt Nam và Nhật Bản tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp”, https://www.mard.gov.vn/Pages/viet-nam-va-nhat-ban-tang-cuong-hop-tac-trong-linh-vuc-nong-nghiep.aspx.
  4. Châu An, “Thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu sang Nhật Bản thông qua CPTPP”, https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/thuc-day-tang-truong-xuat-khau-sang-nhat-ban-thong-qua-cptpp.html.
  5. Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), “JICA ký kết thỏa thuận viện trợ không hoàn lại nhằm hỗ trợ kiểm soát thực phẩm”.
  6. Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) (2013), “Quan hệ đối tác Việt Nam - Nhật Bản từ quá khứ đến tương lai: Tăng cường sự gắn kết giữa con người với con người, quốc gia với quốc gia, vì hòa bình và ổn định trong khu vực”.
  7. Đặng Hoàng Linh - Trần Thị Thùy Linh, “Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong hợp tác phát triển nông nghiệp công nghệ cao”, Tạp chí Quản lý nhà nước, https://www.quanlynhanuoc. vn/2021/08/12/quan-he-viet-nam-nhat-ban-trong-hop-tac-phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao/.
  8. Đinh Cao Khuê, Trần Đình Thao, Nguyễn Thị Thủy (2020), “Tổng quan một số chính sách hỗ trợ sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản”, Tạp chí Khoa học nông nghiệp Việt Nam, số 18(9), tr. 786-793.
  9. Hải Yến, “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn gặp nhiều rào cản”, Thời báo Ngân

hàng,   https://thoibaonganhang.vn/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-van-gap-nhieu-rao-can-110144.html

  1. Hoàng Thái, “Thúc đẩy hợp tác nông nghiệp Việt Nam – Nhật Bản”, Thời Báo Ngân Hàng, https://thoibaonganhang.vn/thuc-day-hop-tac-nong-nghiep-viet-nam-nhat-ban-92409.html.
  2. Ngân hàng Thế giới (2016), Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: Tăng giá trị, giảm đầu vào. Báo cáo Phát triển Việt Nam, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
  3. Nguyễn Thị Thanh Lam, “Nguồn vốn ODA Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 và triển vọng”, Tạp chí Công Thương, https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/nguon-von-oda-nhat-ban-vao-viet-nam-giai-doan-2010-2020-va-trien-vong-82705.htm
  4. Nguyễn Thị Sơn (2016), “Nông nghiệp Việt Nam - Những cơ hội và thách thức trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Khoa học Đại Học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, số 8 (86).
  5. Thanh Thanh, “Doanh nghiệp Nhật Bản: Tăng đầu tư vào nông nghiệp Việt”, Báo Công Thương, https://congthuong.vn/doanh-nghiep-nhat-ban-tang-dau-tu-vao-nong-nghiep-viet-126250.html.
  6. Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, “Hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản”, http://vietnamexport.com/hop-tac-nong-nghiep-viet-nam-nhat-ban/vn2529547.html.
  7. Trần Kim Anh (2021), “Thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5 (243).
  8. Trần Đức, “Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản: Kết quả ấn tượng và triển vọng tươi sáng”, Tạp chí Cộng sản, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/-oi-ngoai2/-/2018/504460/doi-tac-chien-luoc-sau-rong-viet-nam---nhat-ban--ket-qua-an-tuong-va-trien-vong-tuoi-sang.aspx.
  9. CIAT, World Bank (2017), “Climate-Smart Agriculture in Viet Nam. CSA Country Profiles for Asia Series. International Center for Tropical Agriculture (CIAT)”, The World Bank, 2017.

 


[1] ThS., Khoa Kinh tế Quốc tế, Học viện Ngoại giao

[2] Khoa Kinh tế Quốc tế, Học viện Ngoại giao

[3] Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) (2013), “Quan hệ đối tác Việt Nam - Nhật Bản từ quá khứ đến tương lai: Tăng cường sự gắn kết giữa con người với con người, quốc gia với quốc gia, vì hòa bình và ổn định trong khu vực”, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, tr. 17.

[4] Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), “JICA ký kết thỏa thuận viện trợ không hoàn lại nhằm hỗ trợ kiểm soát thực phẩm”, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản.

[5] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, “Đối thoại cấp cao hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản lần thứ 5”, https://www.mard.gov.vn/Pages/doi-thoai-cap-cao-hop-tac-nong-nghiep-viet-nam--nhat-ban-lan-thu-5.aspx.

[6] Hải Yến, “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn gặp nhiều rào cản”, Thời báo Ngân hàng, https://thoibaonganhang.vn/phat-trien-nong-nghiep-cong-nghe-cao-van-gap-nhieu-rao-can-110144.html.

[7] Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, “Hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản”, VietnamExport, http://vietnamexport.com/hop-tac-nong-nghiep-viet-nam-nhat-ban/vn2529547.html.

[8] CIAT, World Bank (2017), “Climate-Smart Agriculture in Viet Nam. CSA Country Profiles for Asia Series. International Center for Tropical Agriculture (CIAT)”, The World Bank, 2017, tr. 3.

0thảo luận