Trang chủ

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 11

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN TỪ SAU KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA TỔ CHỨC WTO ĐẾN NAY

Đăng ngày: 21-02-2013, 11:36

Trước khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO vào tháng 11/2006 quan hệ kinh tế giữa Việt Nam - Nhật Bản đã đạt được những thành tựu hết sức khả quan. Điều này được thể hiện qua các con số sau đây:Trên lĩnh vực đầu tư tính đến 12/2005, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam là 684 dự án với tổng vốn đầu tư 6907,2 triệu USD được cấp phép; viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam chiếm 40% tổng nguồn ODA của các nước và các tổ chức quốc tế cung cấp cho Việt Nam. Tính đến cuối năm 2005, tổng số ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã vượt qua con số 10 tỷ USD, trong đó viện trợ là trên 10%, phần còn lại là các khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp. Trên lĩnh vực buôn bán đối ngoại kể từ năm 2003 là năm thực hiện sáng kiến chung Việt - Nhật, ký kết Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, quan hệ thương mại hai nước phát triển với tốc độ cao, bình quân tăng trên 19%/năm. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO ngày 7/11/2006 thì quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.


 

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 11

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VĂN HÓA VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Đăng ngày: 21-02-2013, 11:32

Trong những năm qua, cùng với sự tăng cường quan hệ Việt Nam -  Nhật Bản trên các mặt kinh tế, ngoại giao; quan hệ văn hóa giữa hai nước đã bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng chưa từng có. Thành tựu giao lưu văn hóa có được hôm nay không chỉ là kết quả của những nỗ lực giữa chính phủ và nhân dân hai nước mà còn bắt nguồn từ chiều sâu lịch sử lâu dài của hai dân tộc Việt - Nhật. Ngày nay, nhìn lại quá trình giao lưu đó để rút ra nhưng bài học kinh nghiệm là việc làm rất cần thiết góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước nói chung cũng như tăng cường hiệu quả giao lưu văn hóa nói riêng.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 11

BÀI QUỐC CA NGẮN NHẤT

Đăng ngày: 21-02-2013, 11:30

ách đây vài năm tôi được dự một khoá đào tạo tại Quận Shibuya, Tokyo Nhật Bản do tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức và tài trợ. Ngày cuối cùng là buổi lễ trao bằng tốt nghiệp, không khí thật nghiêm trang, xúc động và lưu luyến. Trong buổi lễ đó, ấn tượng kèm theo sự ngạc nghiên mà chưa lý giải được chính là bài Quốc ca Nhật Bản vì bài quốc ca rất ngắn (chỉ gần 1 phút).

Sau một thời gian tương đối dài và gặp không ít người Nhật và Việt Nam, tôi đã ít nhiều tìm được lời giải.  Nhân kỷ  niệm 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam  Nhật Bản, tôi xin giới thiệu những thông tin có liên quan đến bài quốc ca Nhật Bản để mọi người cùng tham khảo.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

NGHI LỄ CƯỚI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC

Đăng ngày: 7-02-2013, 13:35

Lễ cưới là nghi thức mang tính xã hội, theo đó, người đàn ông và người đàn bà được gắn kết công khai trước công chúng với tư cách là người chồng và người vợ. Ở mức độ cá nhân, đó là nghi lễ mà thông qua đó sẽ là nghi lễ kết hợp hai gia đình và mở rộng mạng lưới quan hệ xã hội của họ. Về khía cạnh xã hội, sau lễ cưới, một gia đình mới được hình thành. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc lại có các nghi lễ cưới khác nhau do chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán và các nền văn hóa khác nhau. Bài viết này giới thiệu một số nghi lễ cưới hỏi truyền thống của người Hàn Quốc và một số quan niệm của người dân về các nghi lễ này, đồng thời so sánh với một số nghi lễ cưới xin ở Việt Nam.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

QUAN HỆ NHẬT BẢN – CĂMPUCHIA TRONG LĨNH VỰC HỢP TÁC VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG, KINH TẾ, XÃ HỘI (1991- 2007)

Đăng ngày: 7-02-2013, 13:16

Trong quá trình nghiên cứu quan hệ giữa Nhật Bản với các nước Châu Á, Đông Nam Á (ĐNA) có rất nhiều bài viết của các nhà khoa học về quan hệ Nhật Bản với các nước ĐNA dưới nhiều lĩnh vực khác nhau, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu quan hệ Nhật Bản với Cămpuchia và Lào vẫn còn trống vắng nhất là trong giai đoạn sau khi vấn đề hòa bình ở Cămpuchia đã được giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, chúng tôi cùng với một số học viên cao học khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Huế đã quan tâm nghiên cứu vấn đề này, hy vọng sẽ lấp một khoảng trống trong nghiên cứu Nhật Bản tại Việt Nam. Chúng tôi dự định có nhiều bài viết về quan hệ Nhật Bản với Cămpuchia và Lào trên các lĩnh vực khác nhau, phân tích, lý giải những tác động của mối quan hệ giữa Nhật Bản - Cămpuchia, Nhật Bản - Lào đối với lợi ích hai nước, khu vực, đồng thời dự báo triển vọng, thách thức của mối quan hệ này trong tương lai dưới tác động của các nhân tố quốc tế và khu vực.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

ĐÁNH GIÁ XU HƯỚNG DÒNG VỐN FDI CỦA NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM

Đăng ngày: 7-02-2013, 13:12

Nhìn lại chặng đường trong mối bang giao hai nước, mặc dù Việt Nam đã thiết lập các quan hệ ngoại giao đầy đủ với Nhật Bản vào ngày 21 tháng 9 năm 1973,  song vì nhiều lý do khác nhau trong những thập kỷ 1970 và 1980 của thế kỷ XX, quan hệ hai nước chưa được phát triển đúng mức. Tuy nhiên, suốt chặng đường 35 năm đã qua và đặc biệt trong những năm gần đây, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển thay đổi về chất. Nhật Bản đã có sự đóng góp rất đáng kể cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực khác nhau như là sự hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. FDI của Nhật Bản nói riêng không chỉ nhấn mạnh trọng tâm kích thích sự tăng trưởng của ngành công nghiệp mà còn góp phần phát triển hạ tầng cơ sở của Việt Nam nói chung. Mặc dù vậy, bên cạnh những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, lĩnh vực FDI của Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có những trở ngại không nhỏ làm mất cân xứng với quan hệ chính trị đang phát triển rất tốt đẹp giữa hai nước. Có thể nói, vấn đề này được cả phía Việt Nam lẫn phía Nhật Bản bàn luận khá nhiều trên mọi góc độ, từ giới học thuật đến giới chính trị và giới doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài viết, chúng tôi chỉ phân tích cơ sở và đánh giá triển vọng dòng vốn FDI của Nhật Bản ở Việt Nam trong ngắn và trung hạn.


Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

ỨNG PHÓ CỦA NHẬT BẢN XUNG QUANH VẤN ĐỀ HẠT NHÂN CỦA CHDCND TRIỀU TIÊN (Tiếp theo kỳ trước)

Đăng ngày: 7-02-2013, 13:08

Ngoại giao Nam Bắc càng tăng cường thì càng thúc đẩy CHDCND Triều Tiên mở cửa. Điều đó phải chăng mang ý nghĩa tạo ra một tình thế hiệp lực mới của một khu vực bao gồm Nga, Trung Quốc, Nam - Bắc Triều Tiên, Nhật Bản và giảm bớt căng thẳng của toàn thể khu vực Đông Bắc Á. Theo ý nghĩa như vậy, Chính phủ Nhật Bản cho rằng, nếu tiến hành một cuộc thanh sát hạt nhân dựa vào IAEA sẽ làm sáng tỏ được mối hoài nghi của quốc tế về  CHDCND Triều Tiên xung quanh vấn đề hạt nhân do đó sẽ mở ra triển vọng phi thường cho quan hệ Nhật - Triều tiến lên phía trước. Tuy nhiên, vấn đề hạt nhân của Bán đảo Triều Tiên đã thể hiện những phức tạp hơn nhiều.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

SUY THOÁI KINH TẾ NHẬT BẢN ĐẦU NHỮNG NĂM 1990 – KHÍA CẠNH ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH

Đăng ngày: 7-02-2013, 12:56

Nhật Bản đã phải trải qua một cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Từ năm 1988, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP) đã sụt giảm mạnh. Năm 1993, GDP thực tế của Nhật Bản giảm 0,2%. Đây là tình tình hình tồi tệ nhất kể từ năm 1974 khi GDP giảm tới 0,6% do ảnh hưởng của Cuộc Khủng hoảng Dầu lửa lần đầu tiên. Nguyên nhân nào đã đẩy Nhật Bản rơi vào cuộc suy thoái này và người ta đã khắc phục như thế nào? Bài viết này sẽ tìm hiểu những nội dung đó.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN

Đăng ngày: 7-02-2013, 12:54

Năm 2008 là năm đánh dấu một sự kiện quan trọng: Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản vừa tròn 35 tuổi. Có thể nói, 35 năm là quãng đường không dài so với lịch sử mối bang giao giữa hai dân tộc mà dấu ấn đậm nét là sự phát triển phồn thịnh của đô thị cổ Hội An ngay từ thế kỷ thứ 16, hay phong trào Đông Du cuối thế kỷ 18. Song đây cũng là quãng đường ghi dấu những bước thăng trầm, biến động sôi nổi trong quan hệ hai nước. Trong 35 năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ đầu thập kỷ 1990 trở lại đây, quan hệ hai nước đã có bước phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực là lĩnh vực không thể không kể đến khi nói tới những thành quả trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Bởi vì Nhật Bản là quốc gia mà cả thế giới biết đến sự thành công trong lĩnh vực giáo dục, lấy con người làm nguồn lực chủ yếu để cách tân và phát triển đất nước trong hơn 100 năm qua, kể từ công cuộc Minh Trị duy tân. Nhật Bản cũng đã tận dụng thế mạnh này để giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc cải cách và phát triển kinh tế hiện nay. Trên thực tế, trong nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) dành cho Việt Nam, một phần không nhỏ của viện trợ không hoàn lại là dành cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, đào tạo nguồn nhân lực thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam cũng là một kênh quan trọng. Ngoài ra, không thể không kể đến việc xuất khẩu lao động, gửi thực tập sinh, tu nghiệp sinh của Việt Nam sang Nhật Bản như một kênh hợp tác khác… Bài viết xin điểm lại những điểm nổi bật trong lĩnh vực hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực giữa Việt Nam và Nhật Bản để thấy được những thành quả đã đạt được và vấn đề đang đặt ra hiện nay.

Bài viết tạp chí » Năm 2008 » Số 10

CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA MỸ ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Đăng ngày: 7-02-2013, 12:45

Dưới thời chính quyền Clinton, chính sách thương mại của Mỹ đã có những điều chỉnh so với chính quyền tiền nhiệm. Trong tài liệu “Công nghệ vì sự tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ”, chính phủ đã nhấn mạnh rằng, Hoa Kỳ cần đi tới một chính sách thương mại khuyến khích mở cửa, song thương mại phải công bằng, một chính sách thương mại “tăng cường các ngành công nghiệp công nghệ cao” và chính sách này phải đảm bảo “tiếp cận một cách đầy đủ thị trường nước ngoài và bảo vệ một cách hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ”. Chính sách thương mại này cũng phải gắn chặt với chương trình “phát triển và nghiên cứu mạnh mẽ của nhà nước” nhằm tăng cường sức cạnh tranh của ngành chế tạo và nuôi dưỡng những dự án hợp tác nhằm “tăng thêm sự tiếp cận của Hoa Kỳ với các nguồn khoa học và công nghệ nước ngoài, đóng góp cho việc quản lý những vấn đề toàn cầu và đảm bảo cơ sở cho việc sản xuất và trao đổi hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ. Từ đó ta có thể nhận thấy rằng “chính quyền Clinton đã không giữ lập trường buôn bán tự do đơn thuần mà thay vào đó là buôn bán có điều kiện và thương mại phải phục vụ trực tiếp những nhiệm vụ cụ thể. Đây là điểm mới nổi bật trong chính sách thương mại dưới chính quyền Clinton được thể hiện thông qua cụm từ “thương mại tự do và công bằng”.